Khái niệm sở hữu trí tuệ theo WIPO

Theo nghĩa rộng, sở hữu trí tuệ là các quyền hợp pháp xuất phát từ hoạt động trí tuệ trong các lĩnh vực công nghiệp, khoa học, văn học và nghệ thuật.

Các nước có luật pháp bảo hộ sở hữu trí tuệ vì hai lý do chính. Thứ nhất là đưa ra khái niệm luật định về quyền nhân thân và quyền về tài sản của những người sáng tạo trong hoạt động sáng tạo của họ và các quyền của công chúng được tiếp cận những sáng tạo đó. Thứ hai là để thúc đẩy hoạt động sáng tạo, như biện pháp có chủ đích trong chính sách của Chính Phủ. Và phổ biến cũng như áp dụng các kết quả của hoạt động sáng tạo và khuyến khích kinh doanh lành mạnh góp phần vào sự phát triển kinh tế và xã hội.

Nói chung, luật sở hữu trí tuệ nhằm bảo vệ người sáng tạo và những nhà sản xuất hàng hóa và dịch vụ trí tuệ khác bằng cách trao cho họ những quyền bị khống chế về thời hạn để kiểm soát việc sử dụng các sản phẩm đó. Những quyền này không áp dụng cho các vật thể vật chất cụ thể mà sáng tạo có thể mang chứa trong nó hay áp dụng, thực hiện trên nó mà chỉ áp dụng cho chính kết quả của sáng tạo trí tuệ. Sở hữu trí tuệ theo truyền thống được phân chia thành hai nhánh: “Sở hữu công nghiệp” và “bản quyền tác giả”.

Công ước thành lập tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) được ký tại Stockholm vào ngày 14 tháng 7 năm 1967 (Điều 2 (viii)) quy định rằng “sở hữu trí tuệ” sẽ bao gồm các quyền liên quan tới:

- các tác phẩm khoa học, nghệ thuật và văn học

- chương trình biểu diễn của các nghệ sỹ biểu diễn, các bản ghi âm và chương trình phát thanh, truyền hình

- sáng chế trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của con người

- các phát minh khoa học

- kiểu dáng công nghiệp

- nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ, các chỉ dẫn và tên thương mại

- bảo hộ chống cạnh tranh không lành mạnh

Và tất cả các quyền khác là kết quả của hoạt động trí tuệ trong lĩnh vực công nghiệp, khoa học, văn học nghệ thuật.

Những lĩnh vực được đề cập như các tác phẩm khoa học, nghệ thuật và văn học thuộc về nhánh bản quyền tác giả trong sở hữu trí tuệ. Những lĩnh vực được đề cập như chương trình biểu diễn của các nghệ sỹ biểu diễn, các bản ghi âm và việc phát thanh, truyền hình thường được gọi là “các quyền liên quan”, đó là các quyền liên quan tới bản quyền. Những lĩnh vực được đề cập như sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ, các chỉ dẫn và tên thương mại tạo nên nhánh sở hữu công nghiệp của sở hữu trí tuệ. Lĩnh vực được đề cập tới như bảo hộ chống cạnh tranh không lành mạnh cũng có thể được xem là thuộc nhánh đó, như Điều 1(2) Công ước Paris về Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (đạo luật Stockholm năm 1967) (“Công ước Paris”) quy định “việc chống cạnh tranh không lành mạnh” là một trong các lĩnh vực “bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp”; Công ước tuyên bố rằng “Bất kỳ hành vi cạnh tranh nào trái với thông lệ chính đáng trong hoạt động thương mại và công nghiệp được coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh” (Điều 10bis(2)).

Khái niệm “sở hữu công nghiệp” bao gồm các sáng chế và kiểu dáng công nghiệp. Nói một cách đơn giản thì sáng chế là những giải pháp kỹ thuật mới và kiểu dáng công nghiệp là những sáng tạo mỹ thuật xác định hình dạng bề ngoài của sản phẩm công nghiệp. Thêm vào đó, sở hữu công nghiệp còn bao gồm nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ, các chỉ dẫn và tên thương mại, gồm các chỉ dẫn nguồn gốc và tên gọi xuất xứ, và việc bảo hộ chống cạnh tranh không lành mạnh. Ở đây, khía cạnh sáng tạo trí tuệ - tuy vẫn có – song không quyết định như các đối tượng kia, mà yếu tố quyết định ở đây là các đối tượng của sở hữu công nghiệp này căn bản là những dấu hiệu chuyển tải thông tin tới người tiêu dùng, đặc biệt là về các sản phẩm và dịch vụ được chào bán trên thị trường, và việc bảo hộ nhằm chống lại việc sử dụng không được sự cho phép những dấu hiệu có khả năng lừa dối người tiêu dùng và nói chung là hành vi lừa dối.

Các phát minh khoa học, lĩnh vực còn lại được đề cập trong Công ước WIPO, không giống như sáng chế. Hiệp ước Geneva về Ghi nhận quốc tế các Phát minh khoa học (1978) định nghĩa một phát minh khoa học là “việc phát hiện ra hiện tượng, các đặc tính hay quy luật của thế giới vật chất mà cho đến nay chưa từng được phát hiện và có thể kiểm chứng” (Điều 1(1)(i)). Sáng chế là những giải pháp mới cho các vấn đề kỹ thuật. Những giải pháp như vậy, về bản chất, phải dựa trên những đặc tính hay quy luật của thế giới vật chất (nếu không chúng không thể được thực hiện vật chất hay không khả thi về “kỹ thuật”), nhưng những đặc tính hay quy luật này không nhất thiết phải là những đặc tính hay quy luật “cho đến nay chưa được phát hiện”. Một sáng chế đưa ra một ứng dụng mới, kỹ thuật sử dụng mới, các đặc tính hay quy luật đã nói, bất luận chúng được phát hiện (“được phát minh”) từ trước, độc lập với sáng chế.

Trích từ cuốn Cẩm Nang Sở Hữu Trí Tuệ của WIPO
Dịch bởi Cục SHTT

Hỗ trợ trực tuyến

Email: ip@trantran.vn  

Liên Hệ : 04-37327466

 

Sự khác biệt

Dich vụ uy tín
Gói dịch vụ chuyên nghiệp

Chất lượng hàng đầu
Uy tín là phương châm

Theo sát cùng quý khách
Luôn luôn hỗ trợ 

Kênh bảo hộ trực tuyến